Tôm càng xanh tuy là đối tượng thủy sản mới nhưng thích nghi với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng vùng ven biển và cho hiệu quả kinh tế cao mà trong 2 năm nay người dân đã bắt đầu thí điểm 1 vài mô hình nuôi tôm càng xanh. Triển khai nuôi thử nghiệm tôm sú, nuôi bán thâm canh trong ao đất kết hợp trồng lúa Theo khuyến ngư của các chuyên gia hàng đầu, việc nuôi tôm càng xanh toàn đực bằng giống nhân tạo sẽ giúp thực hiện phương án tổ chức lại cây trồng, vật nuôi để nâng cao giá trị sản lượng, từ đó tăng hiệu quả kinh tế và tính bền vững của chăn nuôi.
Chuẩn bị ao nuôi đúng chuẩn
Ao nuôi tôm càng xanh thường được xây dựng ở vùng gần kênh, rạch nơi trao đổi nước dễ dàng bằng thủy triều hay máy bơm. Đặc biệt là không bị nhiễm bẩn bởi chất thải công nghiệp hay hóa chất trong nông nghiệp. Một trong những tính chất quan trọng nhất của đất đối với ao nuôi là tính giữ nước và không sinh phèn. Đất sét, thịt pha sét đều đảm bảo được chức năng giữ nước.
Ao có hình chữ nhật là thích hợp nhất, diện tích nuôi thích hợp từ 1000 – 5000 m2. Mức nước thích hợp từ 1 – 1,5 m. Bờ ao phải chắc chắn, không rò rỉ, không hang hốc làm nơi trú ẩn cho các sinh vật hại tôm. Đối với nuôi tôm xen trong ruộng lúa cần lưu ý: bờ bao phải chắc chắn, bề rộng mặt bờ 1 – 2 m; mặt bờ cao hơn mức nước cao nhất 0,5 m.
Cải tạo ao nuôi
Xả cạn nước, sên vét bùn đáy, chừa lớp bùn dày không quá 10 cm. Tiến hành bón vôi cho ao, dùng vôi sống CaO, hoặc vôi nông nghiệp CaCO3 bón cho ao lượng 10 – 12 kg/100 m2, sau khi bón vôi phơi nắng 5 – 7 ngày.
Chuẩn bị ao
Bao lưới quanh khu vực ao nuôi, ngăn chặn sự xâm nhập của cá dữ, địch hại vào trong ao nuôi. Lưới cao từ 1 – 1,5 m (cỡ lưới 5 mm), chân lưới chôn sâu xuống chân bờ 0,2 – 0,3 m. Lấy nước vào ao qua túi lọc nước, hoặc lưới chắn tạp ngăn đầu cống cấp. Mức nước lấy vào ao từ 1,2 – 1,5 m, tiến hành gây màu nước ao nuôi. Dùng phân chuồng đã ủ hoai, lượng 25 – 30 kg/100 m2. Tốt nhất là dùng phân vô cơ như DAP lượng 200 – 300 g/100 m2 ao nuôi. Khi nước ao có màu xanh nõn chuối thì tiến hành thả giống.
Chọn giống và thả giống phù hợp
Với những ao tiến hành cải tạo triệt để, có thể thả nuôi từ cỡ PL15. Những ao không thể gạn cạn nước, ao có thời gian nuôi lệ thuộc vào thời tiết, cần ương tôm lên cỡ 2 – 3 cm, thả nuôi an toàn hơn. Chọn tôm giống có cỡ loại đồng đều nhau, hạn chế chênh lệch đàn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống.
Kích cỡ giống thả (giống nhân tạo) từ 1,2 – 1,5 cm. Đối với nuôi xen trong ruộng lúa hoặc xen trong vườn có thể thả giống tự nhiên với kích cỡ lớn hơn. Với giống tự nhiên cần chọn nguồn giống được khai thác gần khu vực nuôi.
Mật độ và cách thả
Giống nhân tạo cỡ 0,5 g/con thả 10 – 15 con/m2. Nếu dùng con giống tự nhiên thả với mật độ 5 – 7 con/m2. Thời gian thả tôm nên thực hiện vào lúc sáng sớm, chiều mát. Nếu chuyển giống từ xa về, khi thả cần có thời gian ngâm bao ôxy chứa tôm con xuống ao dự kiến thả giống trong thời gian 15 – 30 phút, để các thông số hai môi trường cân bằng nhau, hạn chế sốc cho tôm con.
Quản lý thức ăn và môi trường
Do việc nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh nghĩa; là thức ăn tự nhiên vẫn còn vai trò quan trọng, kết hợp dùng thức ăn viên, nhằm hạ giá thành sản xuất, giảm chi phí đầu tư; nên cần chọn thức ăn có hàm lượng đạm từ 25 – 30%. Căn cứ vào chất lượng môi trường ao nuôi; mương dơ hay những ngày mưa lớn nên giảm lượng thức ăn. Kết hợp sàng ăn và rải thành nhiều điểm trong ao; để có thể đánh giá đúng thức ăn tôm sử dụng.
Cần theo dõi hàng ngày, duy trì các yếu tố môi trường ao nuôi; trong ngưỡng phù hợp như lượng ôxy hòa tan, pH nước ao, nhiệt độ, độ mặn, độ đục, độ trong nước ao, các khí độc,…
Cần thực hiện bẻ càng tôm để kích thích tôm mau lớn và hạn chế hao hụt; do ăn thịt lẫn nhau vào thời điểm lột xác.
Kiểm tra sức khỏe tôm càng xanh
Cần bẻ càng ở đúng khớp gần cơ thể và hạn chế thương tổn nhất; bằng cách giữ chặt 2 càng và để tôm búng tự nhiên sẽ tự long càng ra. Khoảng 3 – 4 tháng sau thì tôm sẽ mọc lại càng. Sau khi tiến hành bẻ càng, cần chuyển tôm sang nuôi thương phẩm.
Tiến hành ghi chép, theo dõi các chi phí phát sinh, tình hình sức khỏe tôm nuôi theo từng giai đoạn. Đó sẽ là cơ sở để đánh giá, rút kinh nghiệm vào cuối vụ nuôi và định hướng cho vụ nuôi tiếp theo. Nhằm giúp nuôi tôm theo một quy trình đồng nhất, sản phẩm đồng đều về trọng lượng, năng suất cao, hình thức đẹp; giảm giá thành, tăng lợi nhuận thông qua việc ghi chép chi phí sản xuất một cách rõ ràng, chi tiết; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Mô hình nuôi tôm càng xanh phát triển ở nhiều nơi
Bước đầu mô hình nuôi tôm càng xanh ở các huyện Hoằng Hóa, Quảng Xương… đã mang lại hiệu quả kinh tế, lợi nhuận cao cho người dân, mở ra hướng đi mới cho người nuôi trồng thủy sản. Đồng thời, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi thủy sản nước ngọt của địa phương; mở ra triển vọng phát triển và nhân rộng các mô hình kinh tế mang lại hiệu quả cao; nâng cao thu nhập cho người dân.
Với hiệu quả kinh tế và điều kiện nuôi thuận lợi; nhưng việc phát triển nghề nuôi tôm càng xanh ở trong tỉnh vẫn mới chỉ tự phát do người dân học hỏi kinh nghiệm; du nhập về nuôi. Chưa có kế hoạch sản xuất như tôm sú, tôm thẻ chân trắng; trong chiến lược phát triển ngành tôm tỉnh Thanh Hóa.
Cần có nguồn giống tôm chất lượng để phát triển
Một trong những trở ngại lớn nhất cho sự phát triển của các mô hình nuôi tôm càng xanh ở các địa phương trong tỉnh, đó là: chưa chủ động được nguồn giống tôm, thời gian nuôi kéo dài, quy mô nuôi nhỏ lẻ, rải rác, nên sản lượng tôm càng xanh chưa nhiều, mật độ thả nuôi thấp và nhất là thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội địa nên giá bán thường bấp bênh.
Hiện Trung tâm Khuyến nông tỉnh đang thực hiện chuyển giao kỹ thuật nuôi tôm càng xanh ở các huyện Hoằng Hóa, Quảng Xương, Triệu Sơn… bằng hình thức nuôi hữu cơ, nuôi công nghệ cao, an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, an toàn môi trường và sau đó rút kinh nghiệm để nhân rộng. Đồng thời, tổ chức các hoạt động đào tạo, tập huấn; thông tin tuyên truyền về mô hình để nhiều người làm theo.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết này. Tìm hiểu thêm nhiều thông tin về Mô hình trại thuỷ sản tại đây.